Công đoàn Ngân Hàng Việt Nam

Thứ hai, 10/03/2025 | 16:32

Phát biểu của lãnh đạo

Phát biểu của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành Ngân hàng năm 2025

23/12/2024

Sáng ngày 14/12/2024, NHNN Việt Nam tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2025. Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú trình bày báo cáo kết quả hoạt động ngân hàng năm 2024 và định hướng năm 2025.

BÁO CÁO TÓM TẮT

HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG NĂM 2024 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2025

I. Bối cảnh điều hành 2024

Năm 2024 là năm bứt phá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng quyết định thành công việc thực hiện các mục tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, tạo nền tảng quan trọng hướng tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Công tác điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong năm qua được thực hiện trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen: kinh tế thế giới tăng trưởng chậm và không đều, lạm phát các nước hạ nhiệt rõ hơn sau thời gian thắt chặt tiền tệ và giá dầu giảm, các Ngân hàng Trung ương hạ lãi suất, thị trường hàng hóa, tiền tệ biến động mạnh do tính bất định của kinh tế toàn cầu.

Kinh tế trong nước tăng trưởng tích cực với các động lực tăng trưởng chính gồm sản xuất công nghiệp, thu hút và giải ngân FDI, xuất khẩu, du lịch phục hồi khả quan, lạm phát được kiểm soát phù hợp với mục tiêu đề ra. So với các nước trên thế giới, Việt Nam là điểm sáng về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thu hút vốn FDI. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam có độ mở lớn nên gặp nhiều khó khăn khi kinh tế thế giới phục hồi chưa bền vững, rủi ro lạm phát vẫn hiện hữu; khả năng chống chịu còn hạn chế, vừa phải thích ứng với tình hình bên ngoài, vừa phải giải quyết các vấn đề nội tại, hậu quả từ những năm trước để lại (đại dịch Covid-19; năm 2023 nền kinh tế có nhiều khó khăn do tác động của kinh tế thế giới), thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu, đặc biệt là cơn bão số 3 vừa qua đã ảnh hưởng nặng nề đến đời sống kinh tế - xã hội của nhiều địa phương,... là những thách thức lớn đặt ra cho điều hành kinh tế vĩ mô.

II. Các giải pháp điều hành và những kết quả nổi bật năm 2024

Bám sát các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu năm, NHNN đã ban hành Chỉ thị 01 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2024; Chỉ thị 02 về việc đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng; Chương trình hành động của NHNN thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoạt động ngân hàng năm 2024. Các giải pháp ngành Ngân hàng triển khai đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:

1. NHNN đã chủ động điều hành các công cụ của CSTT linh hoạt, theo sát những biến động lớn của kinh tế thế giới, góp phần kiểm soát lạm phát phù hợp với mục tiêu đề ra, góp phần củng cố nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Lạm phát 11 tháng năm 2024 được kiểm soát ở mức 3,69%, hỗ trợ kinh tế tăng trưởng khá cao (6,82%). Trong đó:

(1) Tiếp tục duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp trong năm 2024 để định hướng thị trường giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với các giao dịch phát sinh mới của các NHTM đã giảm 0,44% so với năm 2023. Đây là bước đi thể hiện sự chủ động của NHNN, phù hợp với diễn biến, tình hình trong và ngoài nước, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với kiểm soát lạm phát.

(2) Tỷ giá và thị trường ngoại tệ năm 2024 chịu áp lực lớn, đa chiều và thay đổi nhanh chóng do diễn biến kinh tế - chính trị quốc tế khó lường, đồng USD quốc tế tăng mạnh cộng hưởng với những yếu tố khó khăn trong nước như chênh lệch lãi suất VND-USD trên thị trường liên ngân hàng duy trì mức âm và cân đối cung cầu ngoại tệ kém thuận lợi trong nhiều giai đoạn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ các công cụ CSTT để hạn chế áp lực tỷ giá; công bố phương án bán ngoại tệ cho các TCTD để sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho thị trường trong những giai đoạn áp lực lớn. Nhờ đó, thị trường ngoại tệ duy trì ổn định, tâm lý thị trường được bình ổn, thanh khoản ngoại tệ thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ; tỷ giá diễn biến linh hoạt; mức mất giá của VND phù hợp với xu hướng chung của các đồng tiền trong khu vực và trên thế giới.

(3) Triển khai đồng bộ các giải pháp tăng cường quản lý thị trường vàng, xử lý tình trạng chênh lệch ở mức cao giữa giá vàng miếng trong nước và vàng quốc tế theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, NHNN đã thực hiện cung vàng miếng ra thị trường thông qua đấu thầu bán vàng miếng và bán vàng miếng SJC trực tiếp, giúp thu hẹp đáng kể chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC trong nước và giá vàng thế giới, từ khoảng 25% tại thời điểm chênh lệch cao nhất xuống còn khoảng 5%-7% (hiện chênh lệch còn khoảng 3-5 triệu đồng/lượng).

Trong năm 2024, NHNN đã phối hợp các Bộ, ngành chức năng thanh tra hoạt động kinh doanh vàng của một số đơn vị, doanh nghiệp để từng bước chấn chỉnh hoạt động này. NHNN cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị định số 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng; tiếp tục bổ sung, tu chỉnh và hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất định hướng sửa đổi, bổ sung Nghị định 24 cho phù hợp với điều kiện hiện nay.

2. NHNN đã đổi mới biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng, thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng từ đầu năm, công khai, minh bạch nguyên tắc để TCTD chủ động tăng trưởng tín dụng; theo dõi và chủ động điều chỉnh chỉ tiêu trên cơ sở tình hình kinh tế vĩ mô và mục tiêu CSTT mà không cần đề nghị từ phía TCTD; thực hiện lộ trình giảm dần và gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD. Đặc biệt là, trong điều kiện lạm phát được kiểm soát tốt dưới mức mục tiêu, NHNN đã thực hiện 02 lần điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD vào ngày 28/8/2024 và ngày 28/11/2024 để kịp thời đáp ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh.

Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2024 được cải thiện so với năm trước. Đến ngày 13/12/2024, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 12,5% so với cuối năm 2023 và tăng 16,51% so với cùng kỳ năm 2023. Theo quy luật có tính mùa vụ, tín dụng có xu hướng tăng cao vào những tháng cuối năm đáp ứng nhu cầu vay vốn để thanh toán, giải ngân, mở rộng sản xuất kinh doanh, tiêu dùng phục vụ thời điểm cuối năm và Tết Nguyên đán. Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều tín hiệu tích cực khởi sắc, tăng trưởng kinh tế duy trì phục hồi, mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 là có khả năng đạt được.

3. Các chỉ đạo, định hướng, giải pháp về tín dụng ngành, lĩnh vực trong năm đã kịp thời, bám sát định hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và phù hợp với tình hình thực tế được nắm bắt thông qua các Hội nghị, làm việc trực tiếp tại các địa phương, triển khai sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp.

NHNN đã chỉ đạo triển khai quyết liệt các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó một số chương trình rất hiệu quả và nhiều lần được nâng quy mô, như Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản (từ 15.000 tỷ đồng lên 30.000 tỷ đồng, hiện nay là 60.000 tỷ đồng); Chương trình cho vay liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình 120 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư (hiện số vốn đăng ký đã trên 145 nghìn tỷ đồng); đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Chương trình theo hướng quy định mức lãi suất ưu đãi hơn cho người mua nhà;...

Các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng gặp khó khăn, nhất là sau cơn bão số 3 đã được đẩy mạnh triển khai trên tinh thần đồng hành giữa ngành Ngân hàng và người dân, doanh nghiệp, trong đó nổi bật là chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đã tạo điều kiện góp phần giúp người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Theo chỉ đạo của NHNN, các TCTD cũng đã ban hành và công bố công khai các chương trình, các gói tín dụng với quy mô hỗ trợ 405.000 tỷ đồng cho vay mới và hạ lãi suất, trong đó dành khoảng 300.000 tỷ đồng cho vay mới nhằm kịp thời hỗ trợ, khắc phục thiệt hại do bão lũ gây ra, tạo điểu kiện khách hàng khôi phục và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh tín dụng thương mại, 27 chương trình tín dụng chính sách cũng được triển khai tích cực tại NHCSXH nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng chính đáng và trang trải chi phí sinh hoạt, chi phí việc làm với lãi suất ưu đãi. Tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH đạt khoảng 365 nghìn tỷ đồng, tăng 10,01% so với năm 2023.

4. Quyết liệt tổ chức thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu và tích cực xử lý các TCTD yếu kém, đặc biệt là đã hoàn thành việc chuyển giao bắt buộc 02 ngân hàng yếu kém là Ngân hàng Xây dựng và Ngân hàng Đại dương. Sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD tiếp tục được giữ vững, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền được bảo đảm. Các NHTM có vốn nhà nước tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các TCTD cả về quy mô vốn, tài sản, huy động vốn và tín dụng. Các NHTM cổ phần, về cơ bản đều đang tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện trên các mặt tài chính, quản trị; thực hiện cơ cấu lại hoạt động theo hướng an toàn, lành mạnh hơn.

Hệ thống QTDND tiếp tục được tăng cường, củng cố, chấn chỉnh. Nhìn chung, các QTDND đã xây dựng và triển khai các giải pháp cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu theo lộ trình kế hoạch, trong đó tập trung nâng cao năng lực tài chính, chất lượng tín dụng, hiệu quả hoạt động; tiếp tục chấp hành các quy định an toàn trong hoạt động theo quy định của NHNN.

Các tổ chức tài chính vi mô đều hoạt động kinh doanh ổn định, có lãi và đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động. Gần nửa triệu khách hàng thuộc phân khúc người nghèo, người có thu nhập thấp, doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ đã được tiếp cận các khoản vay từ các tổ chức này.

5. Nợ xấu được tập trung xử lý và kiểm soát. Năm 2024, kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức, thị trường chứng khoán, trái phiếu, BĐS phục hồi còn chậm, thị trường mua bán nợ chưa phát triển như kỳ vọng, thiên tai, bão lũ gây thiệt hại nặng nề,... khiến cho nợ xấu vẫn có xu hướng tăng. Trong bối cảnh đó, để kiểm soát nợ xấu, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN đã và đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ như: (i) Tăng cường công tác giám sát tình hình hoạt động của TCTD, nhất là hoạt động cấp tín dụng, trong đó đặc biệt là cấp tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; việc kiểm soát, xử lý, thu hồi nợ xấu và chất lượng tín dụng của TCTDviệc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo quy định tại Thông tư số 02,...; (ii) Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả; thường xuyên kiểm tra, giám sát và đánh giá việc sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ của khách hàng; chủ động rà soát thiệt hại của khách hàng để tiếp tục thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ theo quy định và áp dụng các chính sách nhằm hỗ trợ khách hàng hồi phục sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các khách hàng chịu ảnh hưởng bởi cơn bão số 3, lũ lụt, sạt lở đất trong thời gian gần đây...

Đến cuối tháng 10/2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm 05 ngân hàng đang kiểm soát đặc biệt) ở mức 1,96%; nợ xấu nội bảng, nợ bán VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu (không bao gồm 05 ngân hàng được kiểm soát đặc biệt) chiếm tỷ lệ 3,28% so với tổng dư nợ.

6. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các TCTD luôn được NHNN chú trọng và tăng cường nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, góp phần bảo đảm an ninh, kỷ luật trên thị trường tiền tệ, ngân hàng. Trong năm 2024, NHNN đã triển khai khoảng 1.400 cuộc thanh tra, kiểm tra; trên cơ sở các hành vi vi phạm được phát hiện, NHNN đã ban hành khoảng 350 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với TCTD, doanh nghiệp và cá nhân. Đồng thời, ban hành nhiều văn bản chấn chỉnh, cảnh báo hoạt động của các TCTD, yêu cầu TCTD tăng cường các biện pháp ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi vi phạm làm phát sinh nợ xấu, kiểm soát nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả, tuân thủ quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.

7. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng tiếp tục được rà soát, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo thuận lợi cho hoạt động của TCTD, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp và người dân. Đặc biệt là trong một thời gian ngắn, NHNN đã trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền số lượng rất lớn văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Các TCTD (04 Nghị định, 01 Quyết định và 33 Thông tư) để vừa đảm bảo đồng bộ với hiệu lực của Luật, tạo điều kiện cho các TCTD kịp thời hoạt động theo quy định mới một cách đồng bộ, thông suốt, vừa tăng cường hiệu quả quản trị điều hành, tạo cơ sở cho Chính phủ, NHNN tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống TCTD, đặc biệt là thúc đẩy công tác tái cơ cấu các TCTD yếu kém.

Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, NHNN đã khẩn trương rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chịu sự tác động của việc sắp xếp bộ máy để đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung phù hợp nhằm đảm bảo hoạt động của NHNN và hệ thống các TCTD an toàn, thông suốt, không bị gián đoạn khi thực hiện phương án sắp xếp, tinh gọn. Sơ bộ rà soát (tính đến ngày 11/12/2024), việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy của NHNN có liên quan đến 04 Luật, 01 Pháp lệnh; 28 Nghị định, 09 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và khoảng 400 Thông tư, Quyết định của NHNN.

8. Kết quả triển khai đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng. Hệ sinh thái số đa dạng đã đem lại nhiều tiện ích hấp dẫn cho người dùng; đến nay, hầu hết dịch vụ ngân hàng cơ bản đã được thực hiện trên kênh số, nhiều ngân hàng đạt tỷ lệ trên 95% giao dịch thực hiện trên kênh số.

Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục đạt được kết quả tích cực; giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 57,54% về số lượng và 34,54% về giá trị; giao dịch qua ATM tiếp tục giảm 13,11% về số lượng và giảm 5,35% về giá trị, cho thấy nhu cầu rút tiền mặt của người dân đang có xu hướng giảm và được thay thế bởi các phương thức, thói quen không dùng tiền mặt.

Việc triển khai áp dụng sinh trắc học ngân hàng đã nhanh chóng được người dân, các tổ chức và doanh nghiệp trong nước ủng hộ. Các TCTD, trung gian thanh toán tích cực và tiên phong trong việc triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06) vào hoạt động ngân hàng.

Triển khai tích cực, đồng bộ các giải pháp đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng. Đồng thời, NHNN tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao; kiểm tra chuyên đề về công tác bảo đảm an toàn thông tin; phối hợp diễn tập ứng cứu sự cố an toàn thông tin; đào tạo chuyên gia an toàn thông tin; điều tra, cung cấp thông tin truy bắt tội phạm sử dụng công nghệ cao liên quan đến ngành Ngân hàng.

9. Công tác tổ chức bộ máy

Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ về đổi mới, sắp xếp mô hình tổ chức bộ máy bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới, NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo rà soát, sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy của NHNN do Thống đốc NHNN làm Trưởng ban và triển khai quyết liệt việc sắp xếp mô hình tổ chức bộ máy theo yêu cầu của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XII.

Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy bên trong của NHNN được thực hiện dựa trên các nguyên tắc, định hướng sau: (i) Tổ chức bộ máy của NHNN đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ngân hàng và thực hiện chức năng Ngân hàng Trung ương, thực hiện nguyên tắc một đơn vị thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một đơn vị chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. (ii) Sắp xếp, kiện toàn các đơn vị thuộc NHNN đảm bảo tinh gọn, giảm cấp trung gian, cụ thể hóa trách nhiệm của từng đơn vị, gắn phân cấp, phân quyền và chịu trách nhiệm. (iii) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của NHNN trong giai đoạn mới.

10. Trong năm 2024, các đơn vị Vụ, Cục, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp thuộc NHNN cũng đã triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm khác, được nêu chi tiết tại bản đầy đủ của Báo cáo hoạt động ngân hàng năm 2024; phương hướng nhiệm vụ năm 2025.

  III. Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động ngân hàng năm 2025

Năm 2025 là năm tăng tốc, bứt phá, về đích, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặt ra mục tiêu cho năm 2025, đó là tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng (đạt khoảng 6,5-7%) trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát (bình quân khoảng 4,5%), bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tập trung cao độ cho việc bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý; cải cách, tinh gọn bộ máy, thủ tục hành chính; thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số,... đáp ứng tốt nhất cho yêu cầu đổi mới sáng tạo, tạo đột phá phát triển đất nước trong tình hình mới, hướng tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

 Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn phức tạp, thách thức và thuận lợi đan xen, bám sát mục tiêu, định hướng của Đảng, Chính phủ, toàn ngành Ngân hàng tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm lớn sau đây:

1. Hoàn thành thực hiện việc rà soát, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của NHNN theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW của BCH Trung ương khóa XII. Sắp xếp nhân sự các đơn vị thuộc NHNN do sắp xếp lại tổ chức bộ máy bảo đảm công khai, khách quan, đúng quy định; Nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền phê duyệt chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của Ngành, trong đó quan tâm công tác đào tạo, đào tạo lại đối với nhóm cán bộ thuộc diện sắp xếp, bố trí nhiệm vụ công tác mới sau khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy.

2. Tiếp tục theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước để điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm hỗ trợ ưu tiên tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

3. Tiếp tục thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; Tiếp tục triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù đối với một số ngành, lĩnh vực theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

4. Theo dõi sát thị trường vàng, triển khai các giải pháp ổn định thị trường vàng theo quy định của pháp luật, chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền, nhằm mục tiêu ổn định thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ. Trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

5. Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thuận lợi cho điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng; thực hiện quyết liệt công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; nâng cao hệ số tín nhiệm và niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào cơ chế, chính sách và hoạt động ngân hàng.

6. Thể chế hóa một số quy định và xây dựng kế hoạch tổng thể để đảm bảo thực hiện được các giải pháp, mục tiêu của Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”. Tập trung thực hiện phương án xử lý các TCTD yếu kém, triển khai cơ cấu lại các NHTM được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động của các TCTD; tập trung thanh tra, giám sát các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro; phát hiện và xử lý nghiêm các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, góp phần bảo đảm an ninh, kỷ luật trên thị trường tiền tệ, ngân hàng. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.

Đề xuất luật hóa một số quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 trong việc xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các TCTD, tổ chức mua bán nợ.

Tiếp tục quản lý, chấn chỉnh, củng cố hoạt động hệ thống QTDND, đặc biệt là xử lý các QTDND yếu kém, các QTDND còn nhiều tồn tại, hạn chế trong hoạt động; tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của tổ chức tài chính vi mô, bảo đảm hoạt động an toàn, hiệu quả.

7. Thực hiện có hiệu quả Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 và Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng. Tiếp tục triển khai các giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt và đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động ngân hàng. Nghiên cứu triển khai các mô hình, công nghệ thanh toán mới, thanh toán xuyên biên giới.

Tăng cường giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng, cảnh báo, khuyến nghị kịp thời về các vấn đề rủi ro, các giải pháp tăng cường an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử, đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống công nghệ thông tin trong ngành Ngân hàng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng.

(Theo SBV)


Tin cùng chuyên mục